Tổng kết 30 năm hoạt động Khuyến nông tỉnh Cà Mau , định hướng hoạt động Khuyến nông đến năm 2030
Công cuộc "Đổi mới" do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và không ngừng phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ một nước có thu nhập thấp, trong quá trình thực hiện "Đổi mới", Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập khá, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới.
Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn trong công cuộc Đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn. Thành công của ngành nông nghiệp trong tiến trình Đổi mới vừa qua có sự đóng góp rất tích cực và quan trọng của hệ thống Khuyến nông Việt Nam với vai trò là cầu nối giữa Nhà nước, cơ quan nghiên cứu khoa học với hộ nông dân và thị trường, là hệ thống tư vấn, tuyên truyền phổ biến kiến thức, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, cung cấp thông tin, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cho nông dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Quá trình hình thành, phát triển lực lượng hệ thống khuyến nông Việt Nam
Từ năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký Nghị định ra đời hệ thống Khuyến nông Việt Nam, buổi đầu là Ban Khuyến nông (02/1992), Cục Khuyến nông (4/1993), Cục Khuyến nông và Khuyến lâm (6/1994), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (từ 2004 đến nay). Bộ NN-PTNT chuyển hệ thống nghiên cứu khoa học nông nghiệp từ tập trung sang xây dựng các viện vùng, trung tâm chuyển giao vùng làm nhiệm vụ nghiên cứu và chuyển giao. Hệ thống khuyến nông làm nhiệm vụ cầu nối, tập hợp, chuyển giao, thúc đẩy truyền cảm hứng, tham gia chỉ đạo sản xuất trong khi HTX nông nghiệp cũ chuyển sang Luật HTX mới. Đến nay, hệ thống khuyến nông từ trung ương đến địa phương đã có gần 17.000 người.
2. Khuyến nông Cà Mau 30 năm hình thành và phát triển
Tháng 1/1994 thành lập Trung tâm Khuyến Ngư từ đó đã đi vào hoat động và phát triển.
Ngày 21 tháng 01 năm 1997 Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Cà Mau ban hành Quyết định số 04/QĐ/CTUB về việc thành lập Trung tâm Khuyến nông tỉnh Cà Mau.
Quá trình thành lập và thay đổi về tổ chức và tên gọi như sau: Tháng 01/1997 đặt tên “Trung tâm Khuyến nông tỉnh Cà Mau”; tháng 3/2009 hợp nhất Trung tâm Khuyến nông với Trung tâm Khuyến ngư thành “Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư”, từ tháng 01/2016 đến nay là “Trung tâm Khuyến nông”. Trên cơ sở đó cùng với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, gắn với ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất, xuất phát từ tình hình thực tế sản xuất trên địa bàn tỉnh
Ngày 07/12/2004, UBND tỉnh Cà Mau trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 25/2004/NQ-HĐND về thông qua Đề án xây dựng mạng lưới cán bộ kỹ thuật sản xuất cơ sở, từ đó hệ thống khuyến nông tỉnh được tổ chức từ tỉnh đến cơ sở với tổng số là 164 người. Từ khi được thành lập và đi vào hoạt động đến nay đã ổn định và đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của ngành nông nghiệp của tỉnh nhà, góp phần xây dựng nông thôn mới của tỉnh.
Trải qua thời gian tuy không dài nhưng hệ thống khuyến nông Cà Mau đã có những đóng góp rất tích cực và quan trọng trong sự phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh nhà. Đồng thời là cầu nối giữa Nhà nước, cơ quan nghiên cứu khoa học với hộ nông dân và thị trường, là hệ thống tư vấn, phổ biến kiến thức, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cũng là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cho nông dân phù hợp với kinh tế thị trường.
3. Phương pháp tiếp cận khuyến nông
Ngay từ những ngày đầu thành lập, hệ thống khuyến nông Cà Mau đã kết hợp chặt chẽ, hài hòa hai phương pháp tiếp cận khuyến nông cơ bản đó là:
+ Phương pháp tiếp cận từ dưới lên: Xuất phát từ nhu cầu của thực tế sản xuất và của người dân ở từng huyện bắc Cà Mau, Nam Cà Mau, từng giai đoạn cụ thể để từng bước đổi mới phương pháp hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất của từng địa phương và nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp của người dân;
+ Phương pháp tiếp cận theo mục tiêu chiến lược: Xây dựng và tổ chức thực hiện các Chương trình khuyến nông trọng điểm nhằm tập trung nguồn lực, sự chỉ đạo để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển của ngành, địa phương trong từng giai đoạn.
+ Phương pháp thông tin tuyên truyền và bám sát tiếp cận địa bàn: Cán bộ khuyến nông tăng cường xuống địa bàn tiếp cận cách làm, kỹ thuật sản xuất của người dân để tìm hiểu nhu cầu nhằm có phương pháp chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân áp dụng sản xuất hiệu quả hơn.
4. Nội dung hoạt động, hình thức khuyến nông thường xuyên đổi mới
Từ năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, bên cạnh việc hỗ trợ đối tượng nông dân nghèo để xóa đói giảm nghèo, nội dung hoạt động khuyến nông đã chuyển sang chú trọng hỗ trợ các đối tượng nông dân sản xuất hàng hoá, nông dân có điều kiện sản xuất, áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng giá trị thu nhập và đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh của nông sản, sản phẩm nông nghiệp của tỉnh trên thị trường quốc tế.
Để góp phần nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao giá trị, tăng thu nhập cho người sản xuất và đảm bảo phát triển nền nông nghiệp bền vững, hoạt động khuyến nông cũng chú trọng xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất nông - lâm - thuỷ sản theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), áp dụng kỹ thuật canh tác "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm", “cơ giới hóa đồng bộ", ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ theo mô hình “cánh đồng lớn”, “trang trại mẫu”… Trong những năm gần đây, hệ thống khuyến nông Cà Mau đang tích cực tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn như: Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm, Chương trình phòng chống và thích ứng với biến đổi khí hậu,…
5. Một số thành tựu nổi bật của hoạt động khuyến nông 30 năm qua
- Hoạt động thông tin tuyên truyền khuyến nông ngày càng đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung và chú trọng nâng cao chất lượng:
Trong những năm qua, Trung tâm khuyến nông tỉnh Cà Mau đã tổ chức được nhiều hoạt động khuyến nông có hiệu quả cao đó là:
+ In và phát hành Bản tin khuyến nông với số lượng hàng triệu bản, nhiều đầu tài kỹ thuật sản xuất nông nghiệp; phát hành gần 300 đĩa hình xây dựng gần 200 video clip; hàng chục nghìn tờ bướm các loại với số lượng hàng triệu bản với nhiều lĩnh vực, loại hình sản xuất khác nhau để cung cấp thông tin cho người dân áp dụng sản xuất.
+ Tổ chức và tham gia hội thi nhằm tuyển chọn và tôn vinh những gương nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, cán bộ khuyến nông năng động, sáng tạo và các sản phẩm cây trồng, vật nuôi, tiến bộ để khuyến khích nông dân phát triển sản xuất.
+ Tham gia các Hội chợ - triển lãm nông nghiệp trưng bày, quảng bá, giới thiệu thành tựu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; thu hút hơn 1 triệu lượt người tham quan, mua sắm và trao đổi học tập kinh nghiệm sản xuất.
+ Tham gia và tổ chức các diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với nhiều chuyên đề theo các lĩnh vực và nhu cầu thực tế sản xuất. Thu hút trên 1.000 người tham dự, trung bình khoảng 120 đại biểu/diễn đàn, trong đó trên 70% là người trực tiếp sản xuất.
+ Phối hợp với hàng chục cơ quan báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình địa phương và khu vực để thông tin tuyên truyền tiến bộ kỹ thuật; có gần 10.000 tin, bài, chuyên mục với chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của nông dân.
+ Trang web Khuyến nông Cà Mau được đánh giá là trang báo điện tử có số người truy cập nhiều nhất trong các trang web của Sở Nông nghiệp và PTNT, đến nay đã có trên 1 triệu lượt người truy cập (bình quân trên 300 lượt truy cập/ngày).
Đồng thời khuyến nông Cà Mau cũng đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền với các nội dung và hình thức phong phú đa dạng (trực tiếp, trực tuyến, trên báo đài, bản tin, điện thoại,…), đặc biệt tư vấn trực tuyến định kỳ hàng tuần (02 kỳ/tuần; 104 kỳ/năm) tạo điều kiện cung cấp thông tin tiến bộ kỹ thuật, giải đáp thắc mắc khó khăn, cơ chế chính sách, giá cả thị trường kịp thời cho người dân sản xuất.
- Hoạt động đào tạo, tập huấn khuyến nông đã góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông các cấp và kỹ năng tổ chức quản lý sản xuất của người nông dân:
Công tác đào tạo, huấn luyện là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong hoạt động khuyến nông, góp phần nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ khuyến nông các cấp và nông dân; nội dung đào tạo, tập huấn phong phú, sát nhu cầu của đối tượng; phương pháp đào tạo thường xuyên được đổi mới; đa dạng hóa các hình thức đào tạo, tập huấn như đào tạo trực tiếp tại lớp học hiện trường; trực quan qua hình ảnh video clip, đào tạo gián tiếp thông qua các phương tiện truyền thông và internet.
Cùng với khuyến nông trung ương, hệ thống khuyến nông địa phương cũng đã tổ chức hàng chục ngàn lớp tập huấn cho hàng triệu lượt nông dân với các chuyên đề gắn với sản xuất của địa phương.
Gần đây, giai đoạn 2015 - 2020, khuyến nông Cà Mau đã tích cực tham gia chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. Tổ chức hàng trăm lớp bồi dưỡng và cấp chứng chỉ “Kỹ năng sư phạm dạy nghề” cho lực lượng cán bộ khuyến nông các cấp, đến nay cả nước đã có gần 500 cán bộ khuyến nông các cấp được đào tạo và có đủ điều kiện để tham gia giảng dạy các lớp đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. Hệ thống khuyến nông trực tiếp tổ chức triển khai các lớp đào tạo nghề, hàng năm mỗi tỉnh đào tạo được khoảng 1.000 nông dân từ nguồn kinh phí trung ương và địa phương.
- Các chương trình, dự án khuyến nông:
Các chương trình, dự án khuyến nông đã bám sát các chủ trương, định hướng phát triển của ngành, chuyển giao thành công nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất và chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân, cụ thể:
* Các chương trình, dự án khuyến nông lĩnh vực trồng trọt:
Các chương trình, mô hình, dự án rất đa dạng và gắn với chủ trương ưu tiên phát triển các sản phẩm hàng hóa có lợi thế cạnh tranh ở từng giai đoạn cụ thể như: chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ và biện pháp canh tác theo hướng thâm canh, sản xuất tập trung, cánh đồng lớn, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, thích ứng với biến đổi khí hậu, áp dụng các kỹ thuật canh tác “3 giảm 3 tăng”, canh tác lúa thông minh, theo hướng VietGAP, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ từ khâu sản xuất đến khâu thu hoạch,… và nâng cao giá trị sản xuất, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh lúa, luân canh lúa - tôm, lúa - cá, lúa - màu; áp dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, an toàn, giá trị kinh tế cao, các biện pháp canh tác bền vững, thân thiện với môi trường,.... Trong những năm gần đây, khuyến nông tập trung chuyển giao các giống mới, áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác đồng bộ theo hướng chuyên canh, áp dụng quy trình sản xuất có chứng nhận, sản xuất theo VietGAP, tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình kinh tế tập thể,… Tuỳ theo từng vùng, đặc trưng thổ nhưỡng, tập quán canh tác, dù ở bất cứ nơi đâu, những cán bộ khuyến nông vẫn luôn bám sát địa bàn hàng ngày để cùng người dân áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất đạt hiệu quả cao; có những cánh đồng lợi nhuận trên 50 triệu đồng/ha/vụ;
* Các chương trình, dự án về lĩnh vực khuyến ngư:
Các chương trình, dự án khuyến ngư cũng không ngừng được đẩy mạnh, góp phần rất quan trọng thúc đẩy ngành thủy sản tỉnh nhà phát triển vượt bậc trong nhiều năm gần đây. Thông qua các chương trình trọng điểm như: chương trình phát triển nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng, chương trình nuôi thủy sản nước mặn, lợ, chương trình nuôi thủy sản nước ngọt, nuôi thủy sản kết hợp, chương trình phát triển giống thủy sản, chương trình khai thác hải sản xa bờ và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đã góp phần nâng cao nhận thức và kiến thức khoa học kỹ thuật cho nông, ngư dân thay đổi sâu sắc về phương thức sản xuất thủy sản từ chỗ chủ yếu dựa vào khai thác và nuôi thả quảng canh sang nuôi trồng bán thâm canh và thâm canh, từ nuôi tự phát phân tán sang nuôi tập trung theo quy hoạch, nuôi theo vung sản xuất hàng hóa nang cao chuổi giá trị, liên kết, tiêu thụ sản phẩm gắn với chế biến, xuất khẩu. Tạo nguồn thu từ xuất khẩu đáng kể cho đất nước nói chung và tiềm năng để tỉnh Cà Mau phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
* Các chương trình, dự án khuyến nông lĩnh vực chăn nuôi:
Tập trung ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về lai tạo giống, áp dụng các giống vật nuôi đạt năng suất, chất lượng cao. Chuyển đổi từ phương thức chăn nuôi phân tán sang chăn nuôi gia trại thâm canh với quy mô phù hợp. Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về chăn nuôi an toàn sinh học, đảm bảo chế độ dinh dưỡng, phòng trừ dịch bệnh, đảm bảo các yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Các chương trình, mô hình được thực hiện đồng bộ trên nhiều loại vật nuôi trọng điểm khác nhau như: Mô hình chăn nuôi heo đảm bảo vệ sinh môi trường, chăn nuôi gia cầm, thủy cầm an toàn sinh học. Các chương trình dự án khuyến nông chăn nuôi đã góp phần nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm, thay đổi tập quán chăn nuôi từ điều kiện địa phương có sẳn sang chăn nuôi có đầu tư, thâm canh. Trong các mô hình về chăn nuôi, thú y đã quan tâm đến việc thay đổi nhận thức của người chăn nuôi trong chăn nuôi an toàn sinh học đảm bảo vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng.
* Các chương trình, dự án về lĩnh vực khuyến lâm:
Được triển khai với nhiều nội dung phong phú, thiết thực, với trọng tâm là ứng dụng các tiến bộ về giống và kỹ thuật lâm sinh để trồng rừng thâm canh, phát triển các loài cây rừng có năng suất cao, chất lượng phù hợp, phát triển cây lâm sản ngoài gỗ làm dược liệu, làm thực phẩm; đẩy mạnh canh tác nông lâm kết hợp gắn việc trồng rừng với tạo thu nhập, nâng cao đời sống và giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu từ rừng.
* Các chương trình, dự án khuyến nông về cơ giới hoá, bảo quản và chế biến nông lâm sản: Cũng được triển khai và đạt kết quả tích cực nhằm giúp nông dân tăng năng suất lao động, giảm lao động nặng nhọc, giảm tổn thất trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch. Thông qua các chương trình, dự án đã góp phần đưa nhanh cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là các khâu làm đất, tưới tiêu, thu hoạch, vận chuyển. Hiện nay trong sản xuất lúa ở các huyện U Minh, Thới Bình, Trần Văn Thời và thành phố Cà Mau, tỷ lệ cơ giới hóa trong làm đất, vận chuyển đạt trên gần 100%, trong khâu tưới tiêu trên 60%, khâu thu hoạch trên 90%, tạo điều kiện giải phóng lao động nặng nhọc và nâng cao năng suất lao động; giảm chi phí lao động, khắc phục được tình trạng thiếu hụt lao động lúc thời vụ tập trung, rút ngắn thời gian gieo cấy và thu hoạch, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập cho nông dân.
- Bên cạnh các chương trình, dự án, hoạt động khuyến nông, Trung tâm Khuyến nông Cà Mau đã tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chung của Bộ, ngành, địa phương như: Phổ biến, triển khai những văn bản quy phạm pháp luật, chính sách của Nhà nước về sản xuất nông nghiệp; hướng dẫn nông dân thực hiện đúng quy trình kỹ thuật để đảm bảo thời vụ và đạt năng suất, chất lượng sản phẩm cao; thu thập thông tin, số liệu sản xuất để kịp thời cung cấp cho Bộ, ngành; .
6. Đánh giá chung về 30 năm hoạt động khuyến nông Cà Mau
- Ưu điểm:
Khuyến nông Cà Mau đã trải qua 30 năm xây dựng, hình thành và phát triển đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Thành lập từ xu thế của chính sách “đổi mới” và nhu cầu thực tế của sản xuất, khuyến nông Cà Mau đã thể hiện những điểm mạnh như sau:
+ Hệ thống tổ chức khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở đã được củng cố và ngày càng hoàn thiện. Hoạt động của hệ thống khuyến nông đã thay đổi theo từng thời kỳ nhưng hiện nay đã và đang từng bước ổn định, kiện toàn theo hướng thống nhất theo Nghị định 83/2018/NĐ-CP về khuyến nông; Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; được các cấp, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm chỉ đạo.
+ Hoạt động khuyến nông đã bám sát các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp trọng điểm, chuyển giao thành công nhiều quy trình tiến bộ kỹ thuật mới, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, đảm bảo hiệu quả cả về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
+ Khuyến nông đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ kỹ thuật và kỹ năng tổ chức quản lý sản xuất để tăng thu nhập, cải thiện đời sống người nông dân và góp phần quan trọng trong công cuộc "xoá đói giảm nghèo", nhất là bà con dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa,…
+ Phổ biến triển khai kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về sản xuất nông nghiệp và khuyến nông đến với nông dân, người sản xuất, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành hàng và thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh.
+ Bước đầu tạo ra mối liên kết giữa hệ thống khuyến nông nhà nước và các tổ chức khuyến nông khác, tạo mối liên kết 4 nhà, thúc đẩy quá trình xã hội hoá công tác khuyến nông, tổ chức nhiều hoạt động khuyến nông phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu của nông dân và thực tiễn sản xuất.
+ Nhạy bén trước sự thay đổi và phát triển kinh tế xã hội để đáp ứng kịp thời, chủ động nhu cầu phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới tỉnh nhà.
- Hạn chế:
+ Hoạt động khuyến nông chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhóm đối tượng nông dân khác nhau. Hoạt động khuyến nông mới tập trung vào xây dựng mô hình để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chưa có nhiều mô hình tổng hợp, liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm, tổ chức quản lý sản xuất, xúc tiến thị trường…
+ Chính sách khuyến nông chưa được bổ sung, chỉnh sửa thường xuyên và kịp thời để phù hợp với nhu cầu của sản xuất và xu hướng hội nhập toàn cầu. Khung pháp lý hỗ trợ công tác khuyến nông chưa thực sự hợp lý và phù hợp với xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn. Đồng thời chưa có chính sách đầu tư trọng điểm cho công tác khuyến nông xóa đói giảm nghèo ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Hoạt động tư vấn, dịch vụ khuyến nông chưa phát triển và chưa có cơ chế chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích cán bộ khuyến nông tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn, dịch vụ phù hợp và hiệu quả đáp ứng nhu cầu đa dạng của nông dân.
+ Liên kết giữa hệ thống khuyến nông Nhà nước và các tổ chức khuyến nông ngoài nhà nước chưa mạnh, sự phối hợp giữa hệ thống khuyến nông với các cơ quan nghiên cứu, đào tạo chưa chặt chẽ.
+ Hệ thống giám sát và đánh giá tác động của các hoạt động khuyến nông còn thiếu và chưa đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
+ Giá cả một số sản phẩm nông nghiệp không ổn định tại thời điểm thu hoạch của người dân, nhất là giá lúa và giá tôm; đồng thời do ảnh hưởng bất lợi của thời tiết, dịch bệnh, giá cả thị trường nên hiệu quả mang lại của một số mô hình khuyến nông chưa cao; việc vận động người dân đăng ký nhân rộng mô hình, đăng ký sản xuất ban đầu còn hạn chế.
+ Giá một số mặt hàng vật tư nông nghiệp, giống, thức ăn,…vẫn còn tăng cao khó khăn cho người dân đầu tư vào sản xuất, nhất là đầu tư vào để nhân rộng các mô hình khuyến nông hiệu quả.
- Bài học kinh nghiệm:
+ Tăng cường sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, ngành, đoàn thể chính trị xã hội nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác khuyến nông.
+ Xác định rõ vai trò và chức năng, nhiệm vụ ở các cấp khác nhau trong hệ thống khuyến nông là thực sự cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân cấp công tác khuyến nông theo định hướng đổi mới.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở có đủ trình độ chuyên môn kỹ thuật, có năng lực thực tiễn, tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động khuyến nông. Đặc biệt cần đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở để họ toàn tâm, toàn ý với công việc và gắn bó với sự nghiệp khuyến nông.
+ Tùy theo nhóm đối tượng nông dân và lĩnh vực sản xuất để tổ chức các hoạt động khuyến nông phù hợp và có hiệu quả. Tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ dân trí của nông dân để họ thực sự tham gia chủ động và hiệu quả vào công tác khuyến nông, bảo vệ quyền lợi người nông dân. Thường xuyên nắm bắt nhu cầu và nguyện vọng của nông dân, có phương pháp tiếp cận phù hợp để xây dựng và triển khai có hiệu quả các hoạt động khuyến nông.
+ Quan tâm nhiều hơn và có chính sách phù hợp để phát triển nguồn nhân lực khuyến nông phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành và đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.
7. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG CÀ MAU ĐẾN NĂM 2030
- Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
- Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, hoạt động khuyến nông phục vụ sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát huy thế mạnh từng ngành hàng,
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
* Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển khuyến nông Cà Mau:
- Xây dựng và phát triển hệ thống khuyến nông Cà Mau ngày càng năng động, vững mạnh để đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và phát triển nông nghiệp, nông thôn phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
- Tăng cường mối liên kết giữa hệ thống khuyến nông nhà nước và các tổ chức khuyến nông ngoài nhà nước nhằm huy động và sử dụng tổng hợp các nguồn lực đầu tư cho khuyến nông theo phương châm xã hội hoá, thiết thực và hiệu quả.
- Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp kết hợp với các loại hình tư vấn, dịch vụ khuyến nông đa dạng, hiệu quả nhằm tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, gia tăng giá trị và sức cạnh tranh của các loại nông sản hàng hóa, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững, xây dựng nông thôn mới, cải thiện và nâng cao đời sống nông dân.
- Xây dựng chiến lược, đề án, kế hoạch phát triển khuyến nông dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển của ngành, phục vụ đa mục tiêu theo các nhóm đối tượng hưởng lợi, các địa bàn sản xuất khác nhau, góp phần thực hiện các Chương trình mục tiêu trong lĩnh vực Nông nghiệp và PTNT như: Chương trình đảm bảo vệ sinh an toàn nông sản thực phẩm; Chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững; Chương trình xây dựng nông thôn mới; Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; Chương trình phòng chống và ứng phó với biến đổi khí hậu...
- Mục tiêu phát triển chung trong chặng đường tới của hệ thống khuyến nông Việt Nam là: phát huy truyền thống và những thành tích, kinh nghiệm đạt trong 30 năm qua, tận dụng tốt cơ hội, vượt qua thách thức, không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nông dân trong nước, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta và tích cực hợp tác, hội nhập với các tổ chức khuyến nông trong khu vực và thế giới.
Để đạt mục tiêu đó, hoạt động khuyến nông cần tập trung vào một số định hướng cơ bản sau:
- Tiếp tục kết hợp phương pháp tiếp cận khuyến nông từ nhu cầu của nông dân và tiếp cận theo chương trình, dự án khuyến nông trọng điểm phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng, từng địa phương. Hệ thống khuyến nông cần bám sát chủ trương và chiến lược phát triển của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là chủ trương cơ cấu lại ngành theo hướng tăng cường áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.
- Đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động để nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông. Nội dung hoạt động khuyến nông cần cụ thể, thường xuyên cập nhật các tiến bộ khoa học công nghệ, các kinh nghiệm, điển hình tiên tiến, bám sát nhu cầu của nông dân và thực tiễn sản xuất từng địa phương, từng thời gian.
- Đa dạng hóa các phương pháp và phương tiện khuyến nông, đặc biệt đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào hoạt động tuyên truyền, đào tạo khuyến nông để tăng khả năng tiếp cập của nông dân với các kênh thông tin khuyến nông. Tiếp tục mở rộng các mô hình hoạt động dịch vụ, tư vấn khuyến nông trực tiếp tại các diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm,…hoặc trên các phương tiện truyền thông, điện thoại, internet,... để đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của nông dân.
Trải qua 30 năm xây dựng, hình thành và phát triển, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng khuyến nông Cà Mau đã tích cực, chủ động trong hoạt động, năng động và sáng tạo trong công tác, liên tục cải tiến để hoạt động khuyến nông đạt kết quả và hiệu quả cao, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và công cuộc xoá đói giảm nghèo cho tỉnh nhà. Nhìn lại chặng đường 30 năm xây dựng và phát triển đã qua, mỗi cán bộ khuyến nông phấn khởi, tự hào với những thành tích đã đạt được, đồng thời quyết tâm tiếp tục phấn đấu, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nông dân, góp phần đưa nông nghiệp, nông thôn tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác khuyến nông đấp ứng yêu cầu, nhiệm vụ theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045./.
Quách Phúc